Nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa nóng ẩm nên Việt Nam có nguồn tài nguyên thực vật phong phú và đa dạng với khoảng 10.350 loài thực vật bậc cao, 800 loài rêu, 600 loài nấm và hơn hai nghìn loài tảo. Kết quả điều tra, cả nước ghi nhận được 3.948 loài thực vật và nấm lớn có thể sử dụng làm thuốc, trong đó có hàng chục loại có giá trị chữa bệnh cao. Tổng sản lượng dược liệu ở Việt Nam hằng năm ước tính khoảng từ ba đến năm nghìn tấn. Một số dược liệu quý được thế giới công nhận và có tiềm năng phát triển rất lớn.
Tiềm năng sản xuất dược liệu nước ta
Đến năm 2025, thuốc sản xuất trong nước đạt 75% số lượng sử dụng và 60% giá trị thị trường, tỷ lệ sử dụng dược liệu nguồn gốc trong nước, thuốc dược liệu tăng thêm ít nhất 10% so với năm 2020.
Xây dựng được 8 vùng khai thác bền vững dược liệu tự nhiên. Xây dựng được 2-5 vùng trồng sản xuất dược liệu quy mô lớn, mỗi vùng khai thác hoặc vùng trồng có 1-2 chuỗi liên kết nghiên cứu, nuôi trồng, chế biến sản xuất dược liệu tuân thủ nguyên tắc, tiêu chuẩn Thực hành tốt trồng trọt và thu hái cây thuốc của Tổ chức Y tế thế giới (GACP-WHO).
Đến năm 2030, Việt Nam trở thành trung tâm sản xuất dược phẩm giá trị cao trong khu vực. Phấn đấu giá trị xuất khẩu thuốc sản xuất trong nước đạt khoảng 1 tỷ USD. Đó là mục tiêu cụ thể của Chương trình phát triển công nghiệp dược, dược liệu sản xuất trong nước đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2045 vừa được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.
Mục tiêu tổng quát của Chương trình là xây dựng ngành công nghiệp dược trong nước đạt mức độ phát triển ở trình độ cao, đạt cấp độ 4 theo thang phân loại của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), có giá trị thị trường trong tốp 3 ASEAN, góp phần bảo đảm cung ứng đầy đủ, kịp thời thuốc có chất lượng, an toàn, hiệu quả và giá hợp lý.
Phát triển dược liệu và các sản phẩm từ nguồn dược liệu trong nước thành lĩnh vực sản xuất hàng hóa có chất lượng và giá trị cao, có sức cạnh tranh trên thị trường trong nước và trên thế giới.
Phát triển vùng trồng dược liệu theo hướng sản xuất hàng hóa quy mô lớn
Theo Bộ Y tế, cả nước có hơn 300 cơ sở sản xuất thuốc từ dược liệu trong nước, trong đó có mười cơ sở sản xuất đông dược đạt tiêu chuẩn thực hành tốt sản xuất thuốc của Tổ chức Y tế thế giới (GMP - WHO). Hiện có 1.086 số đăng ký thuốc từ dược liệu còn hiệu lực. Bên cạnh thuốc cao đơn, hoàn, tán cổ truyền, thuốc đông dược sản xuất trong nước hiện khá phổ biến dưới các dạng bào chế như viên nang cứng, nang mềm, cao dán thấm qua da. Trong nước cũng đã có một số cơ sở trồng trọt dược liệu đạt tiêu chuẩn VietGAP, nhiều đơn vị đang triển khai áp dụng nguyên tắc "thực hành tốt trồng trọt, thu hái cây thuốc". Bên cạnh đó cũng có những cơ sở chế biến thực hiện việc thu mua dược liệu, lo đầu ra cho các hộ trồng trọt, kết hợp các hoạt động tập huấn quy trình kỹ thuật, cung cấp giống cây trồng, phân bón cho nhà nông, hình thành các vùng dược liệu trọng điểm.
Các nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu thực hiện Chương trình gồm: Giải pháp về thể chế, pháp luật; đầu tư, nâng cao năng lực cạnh tranh; khoa học công nghệ, nhân lực và đào tạo; kiểm soát thị trường thuốc, dược liệu; hợp tác và hội nhập quốc tế; thông tin và truyền thông.
Trong đó, tiếp tục thúc đẩy đầu tư nghiên cứu, thử nghiệm, sản xuất thuốc. Quy hoạch và dành quỹ đất xây dựng các khu công nghiệp để thu hút các nhà đầu tư trong và ngoài nước sản xuất các thuốc phát minh còn bản quyền, thuốc chuyên khoa đặc trị, thuốc generic có dạng bào chế công nghệ cao, vắc xin, sinh phẩm y tế đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu.
Đầu tư phát triển vùng trồng, vùng khai thác, chế biến dược liệu của Việt Nam theo hướng sản xuất hàng hóa quy mô lớn; tăng đầu tư cho chương trình bảo tồn, phát triển nguồn gen cây thuốc, quý, đặc hữu trên cơ sở tăng cường đầu tư trang thiết bị công nghệ tiên tiến cho đánh giá chất lượng nguồn gen và chọn tạo giống cây thuốc.
Huy động mọi nguồn lực từ các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước đầu tư phát triển sản xuất thuốc trong nước, sản xuất thuốc nhượng quyền, chuyển giao công nghệ, vắc xin, sinh phẩm y tế và các sản phẩm từ dược liệu. Chú trọng đầu tư, phát triển chương trình hóa dược để sản xuất nguyên liệu làm thuốc phục vụ sản xuất thuốc trong nước, giảm sự phụ thuộc vào nguyên liệu nhập ngoại.
Tổ chức thực hiện ít nhất 2 nhiệm vụ khoa học và công nghệ cấp quốc gia sử dụng ngân sách nhà nước trong 3 năm; ít nhất 5 nhiệm vụ khoa học và công nghệ cấp bộ trong 1 năm về phát triển công nghiệp dược trong nước, tập trung vào các hoạt động: Nghiên cứu phát triển, sản xuất vắc xin đa giá; nghiên cứu ứng dụng công nghệ bào chế hiện đại, nghiên cứu sản xuất nguyên liệu làm thuốc có giá trị kinh tế cao; nghiên cứu chiết xuất dược liệu công nghệ cao, bào chế, sản xuất thuốc, nguyên liệu làm thuốc từ một số dược liệu đặc hữu có giá trị kinh tế cao trong nước, phát triển các sản phẩm quốc gia từ dược liệu Việt Nam.
Ủng hộ, khuyến khích các doanh nghiệp phát triển sản phẩm dược liệu của địa phương
Trong hoạt động kinh doanh, khi doanh nghiệp sản xuất và đưa sản phẩm ra thị trường, chúng tôi rất quan tâm đến nguồn dược liệu vì hiện tại, đa phần, vùng dược liệu vẫn còn nhỏ lẻ, tự phát.
Trước yêu cầu bức thiết về nghiên cứu, ứng dụng khoa học, công nghệ trong lĩnh vực phát triển dược liệu, Thứ trưởng Bộ Khoa học - Công nghệ Trần Văn Tùng cho biết, Bộ sẽ phối hợp chặt chẽ với các bộ, ngành và các địa phương để thúc đẩy phát triển các vùng dược liệu. Trước mắt, Bộ Khoa học - Công nghệ sẽ ưu tiên xem xét hỗ trợ phát triển một số sản phẩm dược liệu theo chuỗi giá trị.
Việc tăng cường đầu tư, nhất là trồng và phát triển dược liệu có rất nhiều ý nghĩa, vừa tạo nguồn thu nhập, nâng cao đời sống cho nông dân, vừa góp phần giữ gìn, phát triển các loài dược liệu quý phục vụ công tác khám chữa bệnh. Chúng ta có tới 5.000 loại thực vật, hơn 400 động vật có giá trị để chiết xuất, sản xuất dược liệu. Số lượng phong phú và đa dạng như vậy nhưng chúng ta mới chỉ đáp ứng được 25% nguồn nguyên liệu để làm các loại thuốc dược liệu là còn khiêm tốn. Đảng và nhà nước đã đề ra những chính sách nhằm phát triển ngành chế biến dược liệu như Nghị định 57 (2018) về chính sách khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn; Nghị định 116 (2018) về Chính sách ưu đãi vốn đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa…
Cùng với những cơ sở sản xuất có uy tín cũng có những cơ sở làm sản phẩm kém chất lượng, ảnh hưởng tới sức khỏe người sử dụng khi đưa ra thị trường. Để đảm bảo chất lượng hàng hóa, đặc biệt là sản phẩm dược liệu, thực phẩm chức năng, các cơ quan ban ngành cần xiết chặt quản lý, các cơ sở sản xuất, chế biến dược liệu cần phải đảm bảo chất lượng sản phẩm, trang thiết bị, cơ sở vật chất đạt chuẩn y tế.
Việt Nam có lợi thế về cây dược liệu nhưng chưa biến lợi thế thành kinh tế do thiếu công nghệ, thiết bị để chế biến dược liệu đạt tiêu chuẩn. Cùng với đó là sự phát triển của các ngành hàng mỹ phẩm thiên nhiên, dược phẩm… làm gia tăng nhu cầu sản xuất, kinh doanh, tiêu dùng các sản phẩm dược liệu, thực phẩm chức năng, mỹ phẩm thiên nhiên. Tuy nhiên, với nguồn lực hạn chế, không phải cơ sở nào, doanh nghiệp nào cũng có thể tự mình xây dựng đội ngũ kinh doanh, marketing, sale, chuyên viên cùng nhà xưởng đầy đủ trang thiết bị đạt chuẩn nên các xưởng gia công mỹ phẩm - nơi cung cấp dịch vụ sản xuất dược mỹ phẩm theo yêu cầu càng càng phát triển, đây cũng là Mô hình sản xuất dược liệu, chế biến dược phẩm mà nhiều người quan tâm, lựa chọn.
Để có được uy tín của người tiêu dùng, thiết bị sản xuất, chế biến dược phẩm cần đảm bảo VSATTP, đáp ứng yêu cẩu GMP, và thiết bị của KAG Việt Nam đáp ứng tốt nhu cầu của người sản xuất. Nếu bạn đang tìm hiểu hệ thống thiết bị chế biến dược phẩm quy mô vừa và nhỏ, xin vui lòng liên hệ với chúng tôi để được hỗ trợ.
CÔNG TY CP CÔNG NGHỆ KAG VIỆT NAM
Hotline: 0904685252
Website: www.maythucphamkag.com - www.xuyena.vn
Email: Kagtechvn@gmail.com
Địa chỉ: Số 115, ngõ 509 Vũ Tông Phan, Khương Đình, Thanh Xuân, Hà Nội